Nước ta có 1 nữ giáo sư cực đỉnh xa quê hương 32 năm: Từng không biết tiếng Anh đến top 1% thế giới
Sau 32 năm nỗ lực, GS Nguyễn Thục Quyên (SN 1970) thành danh trở về nước mang theo khát vọng định vị khoa học Việt trên bản đồ thế giới.Giải thưởng VinFuture
Chuyến bay dài hơn 20 giờ từ California (Mỹ) về Việt Nam không làm GS Nguyễn Thục Quyên (Đại học California) thấy mệt, mà thay vào đó là cảm giác hào hứng và mong chờ. Đây là lần đầu tiên sau 32 năm xa xứ chị trở lại quê hương. Lần này, chị về Việt Nam với vai trò là đồng Chủ tịch Hội đồng sơ khảo giải thưởng VinFuture. Chị vinh dự và hãnh diện khi đất nước có giải thưởng khoa học lớn làm thay đổi cái nhìn của cộng đồng quốc tế.
“Chuyến đi này với tôi mang ý nghĩa rất lớn, đúng vào dịp Tết cổ truyền của dân tộc. Tôi được sống lại những cảm xúc mà hơn 30 năm nay chưa có được. Đó là không khí Tết rộn ràng, hoa đào, hoa mai khắp phố phường”, chị Quyên chia sẻ.
Từng không biết tiếng Anh
GS Nguyễn Thục Quyên sinh ra trong gia đình 5 anh chị em ở Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk). Sau năm 1975, cha đi cải tạo, mẹ làm giáo dạy toán cấp 2 ở vùng kinh tế mới huyện Phước Tỉnh, Vũng Tàu. Lên 5 tuổi, cô bé Quyên phải phụ giúp mẹ dọn dẹp nhà cửa, kiếm củi nấu cơm, đào khoai, câu cá, gánh nước… Cuộc sống cơm áo, gạo tiền cứ đeo bám cho đến năm 1986 khi gia đình mở tiệm phở ở Bến Đá, Vũng Tàu, chị mới được đi học ở trường Trung học Trần Nguyên Hãn.
Tháng 7/1991, chị cùng gia đình sang Mỹ định cư. Hai năm đầu, các anh chị em của chị luôn đòi về Việt Nam vì không biết tiếng Anh và không thích nghi phong tục tập quán ở Mỹ. Nhưng chị thấy ổn vì được làm điều mình thích mà không sợ người khác dị nghị.
Tuổi thơ khó khăn rèn cho chị tính sáng tạo, sự kiên nhẫn, cũng là động lực để chị cố gắng nhiều hơn. “Dù nghèo khó nhưng tôi tin nghị lực học tập của tôi cao hơn các bạn đồng trang lứa, đặc biệt là học sinh Mỹ rất nhiều”, chị nói.
Khi mới đi học, chị bị giáo viên chế nhạo trước cả lớp vì khả năng nói tiếng Anh kém. Một ông người Mỹ từng nói với chị “hãy về nước của cô đi”.“Thậm chí có bạn lúc ở trường không bao giờ nói chuyện với tôi mặc dù tôi đã cố gắng để nói chuyện với anh ta vài lần”, nữ giáo sư nhớ lại.
Tháng 9/1993, chị xin học ở Đại học Santa Monica nhưng không được nhận vì tiếng Anh kém. Chị phải năn nỉ nhà trường cho học thử 1 kỳ và hứa nếu không đạt điểm số nhất định sẽ xin thôi học. Để hòa nhập tốt hơn, chị quyết tâm học tiếng Anh thật nhanh bằng cách đăng ký học thêm miền phí ở ba trường trung học tại ba thành phố khác nhau. Ban ngày đi học ở trường, ban đêm chị học thêm ở nhiều nơi. Với sự nỗ lực không ngừng nghỉ, cuối cùng chị cũng được nhận vào học.
Để đủ tiền học, nữ sinh gốc Đắk Lắk khi ấy xin làm thêm trong thư viện trường từ 17h đến 22h mỗi ngày và phải vay thêm tiền của Chính phủ.
GS Quyên tâm sự, con đường đến với khoa học của mình khác so với những nhà khoa học khác. Chị vốn hứng thú với lịch sử thế giới và yêu văn học, thích địa lý nhưng ngặt nỗi khi sang Mỹ để theo các môn đó phải “tra từ điển muốn chết luôn”. Thế là chị “nhảy” sang lớp Toán, rồi nhận ra bản thân học khoa học cũng khá. Sau đó, chị dần trở nên hứng thú với hóa học và bắt đầu theo đuổi con đường này.
Tháng 9/1995, chị xin chuyển lên Đại học Califonia (bang Los Angeles, Mỹ) và làm thêm công việc rửa dụng cụ trong phòng thí nghiệm của trường. Chị xin làm nghiên cứu nhưng không phòng thí nghiệm nào nhận.
Sau khi tốt nghiệp chuyên ngành Hóa năm 1997, chị nộp đơn học cao học. Một năm sau, chị nhận bằng thạc sĩ ngành Lý – Hóa và quyết định học tiếp tiến sĩ. Thật bất ngờ, chị là 1 trong 7 nghiên cứu sinh xuất sắc được Đại học Califonia trao học bổng.
Tháng 6/2001, chị nhận bằng tiến sĩ và ra trường trước cả những sinh viên chị từng rửa dụng cụ thí nghiệm cho họ trước đây. Nhờ thành tích nghiên cứu xuất sắc, 3 tháng sau chị nhận được giải thưởng của liên bang đi tu nghiệp ở phòng thí nghiệm quốc gia. Tuy nhiên, chị từ chối và đến làm ở Đại học Columbia, New York.
Sau 3 năm tích lũy kinh nghiệm và học hỏi, chị trở về làm việc tại Đại học California và mất hơn 2 năm xây dựng 2 phòng thí nghiệm riêng. Sau 11 năm, chị sở hữu 7 phòng thí nghiệm riêng cho nhóm nghiên cứu. Chị còn xin hơn 10 triệu USD cho những dự án nghiên cứu, được mời tới hơn 200 địa điểm trên thế giới để thuyết trình cũng như nhận nhiều giải thưởng lớn cho công trình nghiên cứu.
“Bạn bè tôi ở Việt Nam vẫn thường bảo hồi ở quê học dốt thế mà sao qua Mỹ học giỏi thế. Tôi trả lời rằng ngày xưa làm gì có thời gian để học vì còn phải phụ giúp gia đình”, vị giáo sư cười.
Phụ nữ làm khoa học
Hơn 18 năm công tác nghiên cứu và giảng dạy ở Đại học California, chị luôn làm việc khoảng thời gian 15 tiếng mỗi ngày. Bên cạnh việc giảng dạy, chị còn làm nhiều công việc khác như biên tập báo khoa học, tổ chức hội nghị khoa học quốc tế, xin tiền dự án nghiên cứu trả lương, học phí, và bảo hiểm y tế cho sinh viên (mỗi nghiên cứu sinh tốn khoảng 100.000 USD mỗi năm), hướng dẫn sinh viên làm nghiên cứu, giúp các em viết bài đăng báo, làm trong ban xét lên lương và lên chức cho tất cả giáo sư trong trường, ban tuyển dụng giáo sư.
Nhắc lại thời gian khi trở thành giáo sư ở Mỹ, chị kể nhiều lúc “chỉ có một mình”. Việc tự xây dựng một phòng thí nghiệm từ căn phòng trống đến gây quỹ nghiên cứu, thành lập đội ngũ, hay điều hành lab của riêng mình là thách thức với giáo sư trẻ. “Đó không phải là con đường dễ dàng, đã có lần tôi khóc, tôi cũng từng nghĩ đến việc từ bỏ”. Thế nhưng, bản thân chị chưa bao giờ hối hận khi chọn đi theo con đường khoa học. Với chị làm khoa học là luôn học hỏi những điều mới.
Đến nay chị sở hữu 7 phòng thí nghiệm riêng cho nhóm nghiên cứu. Đồng thời chị là mộ trong số ít nhà khoa học nữ 4 năm liền được vinh danh trong danh sách hơn 4.000 nhà khoa học toàn cầu vào top 1% những nhà khoa học nhiều trích dẫn nhất thế giới (HCR).
Chị chia sẻ, làm khoa học đã khó nhưng phụ nữ trong lĩnh vực này càng vất vả hơn bởi ngoài sự nghiệp, họ còn phải lo cho gia đình. Ngay bản thân chị, dù đã cố gắng rất nhiều nhưng đôi khi vẫn không nhận được sự tôn trọng của đồng nghiệp nam giới.
“Điều thiệt thòi và không may mắn là khi tôi hết mình với nghiên cứu thì người bạn đồng hành sau 12 năm chung đường đã đề nghị ly hôn. Có vẻ như khi tôi càng thành công, anh ấy càng thấy mất tự tin, cho dù họ cũng là giáo sư cùng ngành và một trong những nhà khoa học có nhiều trích dẫn nhất thế giới”, chị Quyên chia sẻ.
“Phần đông mọi người nghĩ con gái thì nên lo cho chồng con, dọn dẹp nhà cửa và không nên có sự nghiệp riêng. Tôi muốn cho những người phụ nữ khác biết là họ có thể làm cả hai. Tôi muốn làm những điều hữu ích cho xã hội”, chị nói.
Nhớ lại hồi đầu năm 2004, chị đi phỏng vấn tuyển giáo sư giảng dạy ngành hóa ở một số trường đại học. Những ngành này rất ít hoặc hầu như không có nữ giáo sư. “Con đường đi đến thành công ở Mỹ không dễ dàng. Quốc gia này thu hút rất nhiều nhà khoa học hàng đầu trên thế giới, mức độ cạnh tranh lớn và khốc liệt. Đó cũng là điều dễ hiểu khi ít người phụ nữ có thể rạng danh khi làm nghiên cứu ở xứ sở cờ hoa”.
Hồi còn là nghiên cứu sinh, chị tham dự các hội nghị quốc tế, hầu hết diễn giả được mời là nam, chỉ một vài người là nữ. Ngày nay, các hội nghị, nhiều diễn giả nữ được mời hơn nhưng vẫn chỉ khoảng 25%. Chị hy vọng trong tương lai, sẽ có nhiều thay đổi hơn nữa và xã hội công nhận rằng, phụ nữ có thể làm tốt công việc nghiên cứu khoa học như các đồng nghiệp nam của họ.
Dự kiến GS Quyên sẽ ở lại Việt Nam khoảng 3 tuần để được đón Tết Nguyên đán cùng người thân. Trong thời gian đó, chị sẽ tranh thủ gặp gỡ một số nhà khoa học trẻ để hợp tác và làm việc cùng. Nữ giáo sư hy vọng năm tới có thể xây dựng viện nghiên cứu với phòng lab tối tân, mở những workshop để kết nối các nhà khoa học trẻ Việt với thế giới bên ngoài.
GS Nguyễn Thục Quyên nằm trong top 1% nhà nghiên cứu khoa học vật liệu được trích dẫn nhiều nhất thế giới của Thomson Reuters và Clarivate Analytics.
Các nghiên cứu của GS Quyên xoay quanh tính chất điện tử của Polyelectrolytes liên hợp, giao diện trong các thiết bị quang điện tử, việc tạo và vận chuyển điện tích trong chất bán dẫn hữu cơ, vật liệu mới cho các ứng dụng pin mặt trời hữu cơ, tự lắp ráp phân tử, xử lý vật liệu, đặc tính kích thước nano của pin mặt trời hữu cơ và vật lý thiết bị .
Trong sự nghiệp khoa học, chị nhận được nhiều giải thưởng danh giá như: Giải thưởng Nhà nghiên cứu trẻ của Văn phòng nghiên cứu Hải quân (2005), giải thưởng quỹ Khoa học quốc gia Career (2006), giải thưởng Harold Plous (2007).
Năm 2008, bà nhận giải thưởng học giả – giáo viên Camille Dreyfus, sau đó lần lượt là các giải nghiên cứu viên Alfred Sloan năm (2009), nghiên cứu viên đổi mới và năng lực cạnh tranh Hoa kỳ của Quỹ khoa học quốc gia (2010), giải thưởng Nghiên cứu cao cấp Alexander Von Humboldt (2015), nghiên cứu viên của hiệp hội hóa học hoàng gia (2016). Đặc biệt, bà được bình chọn là trí tuệ khoa học mang tầm ảnh hưởng nhất thế giới 4 năm liên tiếp 2015, 2016, 2017 và 2018.
Nɢười Việł ᵭi пước пɢoài ảo ʋới łưởпɢ ƙiếɱ łiềп łɾiệᴜ ᵭô, пɦưпɢ ƙɦôпɢ пɢờ 10 пăɱ lại łɾở ʋề Việł Nɑɱ ʋới 2 ɓàп łɑy łɾắпɢ
Được ᵭịпɦ cư ở Mỹ là пỗi ƙɦáł ƙɦɑo ᵭếп á.ɱ ả.пɦ củɑ пɦiềᴜ пɢười Việł. Kɦôпɢ íł łɾườпɢ ɦợρ, cả ᵭời cầy cᴜốc, ɢoɱ ɢóρ łiềп ɓạc ᵭể ɢửi coп sɑпɢ Mỹ ɦọc. Tiếρ łɦeo, ɓ.áп пɦà cửɑ, ɢoɱ ɢóρ łiềп ɓạc ᵭưɑ cả ɢiɑ ᵭìпɦ ɗi cư sɑпɢ Mỹ.