RSS

Việc làm toàn thời gian trở nên khó khăn đối với sinh viên Úc mới tốt nghiệp

11:00 14/01/2018

Sinh viên tốt nghiệp đại học tại Úc gần đây đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm việc làm toàn thời gian, bất chấp sự tăng trưởng trong tổng thể việc làm, và cứ 5 sinh viên tốt nghiệp thì có một người phải làm việc bán thời gian trong năm 2017.

Mặc dù đã có những cải thiện nhỏ từ năm 2014, kết quả việc làm cho sinh viên mới tốt nghiệp vẫn còn tệ hơn đáng kể so với trước khủng hoảng tài chính toàn cầu - bất chấp sự bùng nổ việc làm.

Nhưng trong trung hạn - 3 năm sau khi rời trường đại học - gần 90% sinh viên tốt nghiệp đang làm việc toàn thời gian, và 2/3 trong số đó nói rằng bằng cấp của họ là quan trọng hoặc rất quan trọng đối với công việc hiện tại.

Khoảng cách về lương theo giới tính đối với sinh viên chưa tốt nghiệp cũng đã thu hẹp xuống mức thấp kỷ lục là 1.9%, theo Khảo sát Kết quả Tốt nghiệp năm 2017 của Chính phủ liên bang vừa mới được công bố.

Khảo sát cho thấy có 71.8% sinh viên chưa tốt nghiệp đã làm việc toàn thời gian 4 tháng sau khi rời khỏi trường đại học - tăng 0.9% kể từ năm 2016, nhưng vẫn thấp hơn mức cao nhất là 85.2% trong năm 2008.

Các ngành học chủ yếu với tỷ lệ việc làm toàn thời gian thấp nhất sau 4 tháng là nghệ thuật sáng tạo (55.4%), khoa học và toán học (59%), tâm lý học (60.7%) và truyền thông (61.7%).

Điều mà các tác giả của báo cáo cho là "thú vị" là sinh viên tốt nghiệp ở vùng thưa dân và và xa xôi hẻo lánh có nhiều khả năng làm việc toàn thời gian 4 tháng sau khi rời trường đại học hơn là so với ở khu vực thành thị (75.5% so với 70.6%).

Cuộc khảo sát cũng ghi nhận sự thay đổi về việc làm bán thời gian, chủ yếu là do tình trạng "tương đối yếu" của thị trường lao động kể từ khủng hoảng tài chính toàn cầu. Từ năm 2008, tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm bán thời gian đã tăng từ 22.8% lên 37.9%.

Nhiều người trong số họ đã không mong muốn làm việc nhiều giờ hơn do còn phải tiếp tục học. Tuy nhiên có 19.7% số sinh viên tốt nghiệp đã có việc làm không sử dụng hết năng lực của họ, với tỷ lệ cao nhất trong ngành nghệ thuật sáng tạo, truyền thông, du lịch và dịch vụ khách hàng, khoa học nhân văn, khoa học và toán.

Khoảng cách về lương theo giới tính của sinh viên chưa tốt nghiệp đã giảm từ 6.4% xuống còn 1.9%, mức thấp nhất trong 40 năm. Nhưng đối với những người đã hoàn thành các chương trình sau đại học bằng luận án, khoảng cách đó đã tăng lên 15,000 đô, tương đương 19.7%.

Cuộc khảo sát, do Bộ Giáo dục Liên bang công bố, dựa trên 121,000 phản hồi từ các sinh viên tốt nghiệp của các trường đại học Úc và các cơ sở giáo dục đại học khác. Ngoài kết quả làm việc, nó cũng đánh giá sự hài lòng của sinh viên với các khóa học của họ.

Năm 2017, các ngành học có mức độ hài lòng thấp nhất là tin học, công nghệ thông tin và kỹ thuật, mặc dù sự hài lòng cho tất cả các ngành học vẫn còn vượt quá 70%. Chỉ có trong ngành kỹ thuật là sự hài lòng ít hơn 50%.

Lᴜộc ɢà ᵭổ łɦẳпɢ пước lã ʋào là ɗại: Dùпɢ loại пước пày łɦịł пɢọł lừ, ɗɑ ɢiòп sầп sậł, ƙɦôпɢ sợ пứł

Lᴜộc ɢà ᵭổ łɦẳпɢ пước lã ʋào là ɗại: Dùпɢ loại пước пày łɦịł пɢọł lừ, ɗɑ ɢiòп sầп sậł, ƙɦôпɢ sợ пứł

Kɦi lᴜộc ɢà, ɱộł số ɱẹo пɦỏ ɗưới ᵭây có łɦể ɢiúρ ɱóп ăп củɑ ɓạп łɾọп ʋẹп ɦơп, ɢà ƙɦôпɢ пứł ɗɑ, łɦịł пɢọł ʋà ɾắп.